Dược là thuốc, Sư là thầy. Phật tên Dược Sư Lưu Ly Quang
Vương. Kinh tên Dược Sư Bổn Nguyện Công Đức. Dươc Sư là ông thầy thuốc.
Lưu Ly là một thứ ngọc trong suốt từ trong ra ngoài.
– Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
– Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật.
Dược là thuốc, Sư là thầy. Phật tên Dược Sư Lưu Ly Quang Vương. Kinh tên Dược Sư Bổn Nguyện Công Đức. Dươc Sư là ông thầy thuốc. Lưu Ly
là một thứ ngọc trong suốt từ trong ra ngoài. Thiền tông có khẩu hiệu
“đập vỡ thùng sơn”. Thùng sơn ví thân ngũ ấm của chúng ta. Trong đen xì
ngã chấp, ngoài đặc xịt pháp chấp. Có phá vỡ thùng sơn thì việc làm
của người tu hành mới xong. Bát Nhã Tâm Kinh dạy : “Chiếu kiến năm uẩn
đều không, độ thoát hết thảy khổ ách”. Tướng mạo tối đặc như thùng
sơn đen là do 2 căn bệnh chính : kiến hoặc và tư hoặc. Kiến hoặc là
thấy lầm, tư hoặc là nghĩ lầm.
Dùng danh hiệu Dược Sư Lưu Ly
Quang Vương Phật để trong uống ngoài xoa. Trong uống là mỗi mống niệm
vọng tưởng (tư hoặc) liền biết. Biết vọng thì vọng tan. Mỗi khi tham
sân si hiện hành liền biết gốc do kiến hoặc. Cần thanh tịnh sáu căn.
Đề khởi hai chữ Dược Sư là tự nhắc bổn phận thiết yếu, từng niệm từng
niệm giác sát, thanh lọc nơi tâm. Thế là trong uống. Còn ngoài xoa là
tin chắc có nguyện lực của Phật hộ niệm. Phật không ở đâu xa. Phật
thường trụ ngay tại đương niệm. Chúng ta chỉ vì phan duyên, thọ kích
thích, tưởng biến hóa, sắc làm mù, năm ấm che lấp khiến tựa hồ như xa
cách Phật.
Tổ dạy : “Tâm bình thường là đạo”. Tâm bình thường
là Lưu Ly, trong không bị tư hoặc làm mê, không bệnh ngã chấp. Ngoài
không bị kiến hoặc đánh lừa, giải thoát pháp chấp.
Quang
nghĩa là sáng suốt. Sáng đây không phải là ánh sáng mặt trời mặt
trăng. Ánh sáng trí tuệ thuộc tinh thần không có hình tướng. Trong khi
niệm, nghe âm thanh rõ ràng không mờ, từng tiếng minh bạch là tánh
giác sáng tỏ. Nếu nghe không rõ, thì hoặc bị hôn trầm, hoặc đã vướng
vào một trần cảnh nào khác. Tánh nghe chính là tánh giác ở khắp pháp
giới. Nghe rõ tiếng niệm tức là ngay lúc ấy, ta đã trở về tánh thể.
Tánh này đồng với chư Phật và dĩ nhiên đồng với đức Dược Sư Lưu Ly
Quang. Niệm danh hiệu ngài để tự nhắc tâm mình, tâm Phật vẫn thường
trụ ở khắp mười phương không rời nhau.
Kinh Lăng Nghiêm dạy :
“Mười phương Như lai thương nhớ chúng sanh như mẹ nhớ con. Nếu con
trốn chạy thì mẹ dẫu nhớ có làm gì được. Nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ
con, mẹ con đời đời chẳng rời xa nhau. Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật
niệm Phật, đời này đời sau quyết định thấy Phật”.
Không nói
trong suốt như pha lê mà nói trong suốt như lưu ly, vì ngọc lưu ly màu
xanh lơ (xanh da trời). Ngửa lên bầu hư không, ta thấy một màu xanh
nhè nhẹ. Tìm thể chất thì chỉ có hư không nên đức Phật dùng màu này
tượng trưng những gì huyễn vọng, không thật có. Năm ấm, ngã chấp, pháp
chấp, kiến hoặc, tư hoặc v.v…, bao nhiêu bệnh hoạn nặng nề của thế
gian, dưới con mắt Phật, chỉ là những hoa đốm ở hư không. Cứ chữa khỏi
bệnh lóa ở mắt thì hoa đốm sẽ không còn. Cứ tỉnh ra, đừng ngủ mơ nữa
thì những giấc mộng cọp vồ, nhà cháy đâu còn. Mặt trời trí tuệ của tất
cả chúng sanh bản lai vẫn thường sáng. Chỉ vì chuyên sống với tâm
phan duyên, quên tánh bản giác mà hóa thành thùng sơn năm uẩn. Nay
vâng theo giáo pháp Dược Sư, chuyên trì danh hiệu Phật, sẽ thoát vô
minh sanh tử, trở về bổn tâm viên quang.
Dược Sư là công dụng.
Lưu Ly là thể tịnh. Quang là tánh giác. Chữ Vương là hình-dung-từ để
hiển công dụng thù thắng, thể thanh tịnh, tánh quang minh, mỗi mỗi
tuyệt vời.
Bao nhiêu nguyện đã phát ra từ lúc tu nhân làm Bồ-tát, ngày nay thành Phật tức là đã viên mãn. Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang đã nguyện những gì ?
1/.
Nguyện chứng Pháp-thân thường trụ ở khắp mười phương. Nhưng không
phải chỉ chứng lý suông mà kiêm sự việc thiết thực, ta và người đều đủ
ba mươi hai đại nhân tướng.
2/. Nói về quang minh. Quang minh
không phải chỉ giác ngộ mà có. Cần nhiều kiếp công hạnh mới thành
tựu. Kinh Bảo Tích nói : “Đức Thích Ca có một quang minh tên là Vân
Tịnh Chiếu. Đây do nhiều kiếp tích tập thiện căn, xót thương những
người bệnh khổ, cấp thí thuốc men, mong cho lành mạnh”.
3/. Đầy đủ trí tuệ phương tiện, cung ứng tất cả chỗ cần dùng cho khắp hữu tình.
4/. Dẫn tà đạo về chánh pháp, đưa nhị thừa lên Vô-thượng Bồ-đề.
5/. Ai chưa có giới phẩm giúp vào giới phẩm. Ai lỡ phạm giới khiến trở về tịnh giới, chẳng đọa đường ác.
6/. Cứu giúp các tật nguyền.
7/. Chữa khỏi các bệnh hoạn.
8/. Chuyển những tinh thần nhi nữ mềm yếu trở thành dũng mãnh trượng phu, tiến tới quả vị đại hùng lực.
9/. Giúp các hữu tình thoát chài lưới ma, ngoại đạo ràng buộc, rừng rậm ác kiến.
10/.
+ 11/. + 12/. Cứu vớt tai nạn ngục tù đói rét. Nhất là những nỗi khổ
bức bách khiến tạo nghiệp ác, chiêu vời quả báo triền miên nhiều kiếp.
Ngoài ra còn nguyện chuyển những tâm tham sẻn thành quảng đại
từ bi. Đầu mắt chân tay còn bố thí huống chi các tài vật khác. Con
đường giải thoát đòi hỏi giới hạnh trang nghiêm, chánh kiến, đa văn.
Một chút kiêu mạn liền thành bạn của ma, khen mình chê người, phỉ báng
chánh pháp, làm cho vô lượng hữu tình cùng theo xuống hố hiểm sâu.
Những bệnh ghen ghét ngang ngược, hiềm thù lấn hiếp, bao nhiêu thống
khổ sanh già bệnh chết, đức Phật đều nguyện dùng thần lực khiến giải
thoát nhân quả ác thú, dần dần dắt dẫn tới Vô-thượng Bồ-đề.
Chúng
ta tụng kinh, hàng ngày huân tập tư tưởng quảng đại từ bi, ước mong
thể nhập vào biển đại nguyện của đức Dược Sư. Tập sống như ngài, mỗi
niệm mỗi niệm mong đem hạnh phúc an vui cho quanh mình, chẳng còn có
sợ những khổ ác thú. Nguyện từ nay gánh vác hết thảy hữu tình, làm
việc nghĩa lợi nhiêu ích an vui.
Bốn mươi tám nguyện của Phật A
Di Đà tiếp dẫn chúng ta về thánh cảnh. Mười hai nguyện của đức Dược
Sư cúi xuống vớt chúng ta ra khỏi vực thẳm ác thú, bảo vệ chánh kiến
và đưa chúng ta vào thắng pháp.
A Di Đà Tàu dịch là Vô Lượng
Thọ, Vô Lượng Quang, Vô Biên Công Đức. Nói một cách khác A Di Đà là
chân tâm bản tánh của tất cả thánh phàm, là quả đức cầu về của tất cả
Phật tử. Dược Sư là giới, Lưu Ly là định, Quang Vương là tuệ, ba nhân
tu thiết yếu hiện tại của tất cả các pháp môn.
Thờ Phật Dược
Sư phải 49 ngọn đèn. Hai vị Bồ-tát hầu cận tên là Nhật Quang Biến
Chiếu và Nguyệt Quang Biến Chiếu. Bởi vì khoen đầu của mười hai nhân
duyên sanh tử là vô minh nên thuốc chữa không thể rời trí tuệ.
Dược
Sư Bổn Nguyện Công Đức Kinh gồm có bảy bộ. Ngài Huyền Trang cầu pháp ở
Ấn Độ đã thỉnh và dịch trọn vẹn tất cả sang tiếng Hán. Nguyên vì đức
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật thương xót chúng sanh ác trược, chịu nhiều
quả báo đau khổ nên nói cho biết về phương Đông có bảy vị Dược Sư
Phật. Mỗi vị đều có nguyện riêng. Tổng ý là chữa phiền não chướng,
nghiệp chướng, báo chướng, khiến chúng sanh được an thân vui khỏe vĩnh
viễn.
Chúng ta đã biết mỗi vị Bồ-tát khi thành Phật đều có
một thế giới để giáo hóa tất cả những kẻ có duyên. Thế giới duy tâm
cảm quả. Báo thân Phật do “Trí” hiện hành.
– Vận Ý Thông Chứng nghĩa là khởi tâm cầu chứng ngộ. Đây là tâm địa tối thắng không gì hơn nên thế giới tên Tối Thắng.
– Quán Âm Tự Tại
là tánh nghe không bị âm thanh chi phối chuyển động. Đây là tánh Phật,
của báu vô giá, mỗi chúng ta đều có nhưng rất ít người biết đến. Vì
vậy thế giới tên là Diệu Bảo.
– Tâm địa vô ưu không lo lắng, hẳn bình an khang cát nên Phật tên là Tối Thắng Cát Tường.
– Tịnh trụ là ở chỗ an tĩnh, dễ bề phát triển trí tuệ, nên Phật hiệu là Quảng Đạt Trí Biện.
– Pháp Hỷ tâm vui thích Phật pháp, cảm quả báo thành Phật hiệu là Pháp Hải Du Hý Như Lai (vui chơi trong biển pháp).
– Hạnh viên mãn nên Phật hiệu là Kim Sắc Thành Tựu, thân vàng đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu.
Chúng ta lễ bái bảy danh hiệu, chớ quên con đường Dược Sư, tự chữa bệnh
cho mình, chữa bệnh cho chúng sanh, trước hết phải phát tâm Bồđề cầu
chứng ngộ. Sau tìm nhân tu cho liễu nghĩa. Như người làm ruộng phải lo
chọn hạt giống. Người lập chí giác tỉnh phải y cứ Phật tánh mà tu.
Trợ duyên phát sanh trí tuệ là an tĩnh và Phật pháp. Đủ nhân đủ duyên
quyết định viên mãn Bồđề.
– Thật ra Phật và Bồ-tát nào không
chữa bệnh, không phải là thầy thuốc. Phật và Bồ-tát nào không tiếp
dẫn chúng sanh về cảnh an vui. Mà sao đạo Phật lại đặc biệt hướng về
phương Đông cầu an, hướng về phương Tây cầu siêu. Trong khi kinh dạy
chân tâm bản lai thường trụ bất động ở khắp mười phương, không hề
riêng cuộc ?
– Thưa : Cầu an hướng về phương Đông vì mặt
trời mọc nêu biểu sinh hoạt. Cầu siêu hướng về phương Tây vì mặt trời
lặn nêu biểu tịch diệt. Trên sự thật thì quả đất xoay tròn đâu có Đông
Tây. Mặt trời đứng trụ đâu có mọc lặn. Nhưng rõ ràng trong đời sống
hiện tại của chúng ta vẫn có Đông Tây trong không gian, vẫn có mặt
trời lặn rồi mọc để thành có hôm qua, hôm nay và ngày mai. Thời gian
hư vọng nhưng vọng kiến của con người không thể thiếu cái lịch để cùng
nhau thỏa thuận nào ngày, nào tháng, nào năm…
Vì khế cơ nên
đức Phật tùy theo cuộc đời sanh tử, xếp đặt giáo pháp có Đông có Tây,
để chúng sanh động loạn có phương hướng quay về, an định tinh thần,
dần dần giải thoát. Nhưng vẫn khế lý, mắt Phật thấy trong không gian
vô tận có vô biên thế giới khổ vui đẹp xấu khác nhau. Đúng như sự thật
Phật đã thấy, tương đối với trái đất của chúng ta, phương Đông có cõi
Tịnh Lưu Ly, phương Tây có cõi Cực Lạc. Chúng ta học Phật nên nhận
định cẩn thận cả hai pháp giới Sự và Lý.
Chớ để nghi ngờ trong tâm, ngõ hầu mạnh mẽ thẳng tới vô ngại giải thoát.
Tuy
Dược Sư Bản Nguyện có bảy bộ nhưng lưu hành tới Việt Nam chỉ có một
bộ của đức Lưu Ly Quang vì Việt Nam đặc biệt sùng bái tông Tịnh-độ.
Pháp môn trì danh rất được thịnh hành. Dược Sư Bản Nguyện Kinh có đoạn
: “Nếu ai chịu giữ tám phần trai giới, ít nhất ba tháng, được nghe
danh hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật, thời khi lâm chung sẽ có
tám vị đại Bồ-tát chỉ đường về thế giới An Lạc trong đám hoa báu nhiều
màu sắc đẹp”. Khắp cuốn Bổn Nguyện này nhiệt liệt khuyên trì danh
hiệu Phật. Vì thế cuốn Dược Sư Bổn Nguyện Công Đức Kinh được coi là
một pháp môn của tông Tịnh-độ, trì danh cầu sanh Tây phương An Lạc thế
giới.
Pháp môn Dược Sư cũng như tất cả các pháp môn khác đều
có hai phần : Hiển giáo và Mật giáo. Hiển giáo giảng dạy rõ ràng đường
lối tu hành. Người tu học biết rồi, tự lực tự đi. Còn Mật giáo, người
tu chỉ đem lòng tin trì tụng thần chú. Trong kinh Pháp Hoa, phẩm Thí
Dụ, ông trưởng giả đặt sẵn ở cửa sổ chiếc ghế, đứa con nào khỏe chân
tự nhảy ra mà thoát nạn. Còn Mật giáo ví như vạt áo, ông trưởng giả
che đầu các con, đưa ra khỏi nhà lửa, không bị nóng bức, không mất
công nhiều, toàn nhờ sức cha các con thoát nạn.
Nay lại thêm
một ví dụ : Ông kỹ sư tự chế tạo ra đèn điện, tha hồ sử dụng ánh sáng.
Ông lại chế ra nút bấm, khiến người khác không cần vất vả học hành,
chỉ việc bấm nút liền có đèn sáng, thọ dụng tha hồ như ông không khác.
Cũng thế, đức Phật nói thần chú. Chúng ta trì chú cũng đi đến kết quả
như Phật không khác. Nhưng cần để ý : bấm nút mà đèn cháy được là nhờ
bóng đèn, dây và sức điện đều đúng pháp. Trì chú thần lực cũng vậy,
ba nghiệp phải đúng pháp mới linh nghiệm.
Khi trì chú tưởng
vòng tròn tâm nguyệt từ chữ Tông màu trắng phóng ra hào quang sáng
lớn, khắp chiếu chúng hữu tình. Ánh sáng tới thân sáu đạo chúng sanh
thì giới ba la mật của chư Phật liền viên mãn. Trong một thời này làm
chân Phật tử.
Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật.
No comments:
Post a Comment